Bộc lộ nhiều điểm yếu trong cơ cấu các nguồn vốn cho nền kinh tế

Tổng quan về huy động nguồn lực tài chính phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn 2019-2024

Trong bối cảnh thế giới đối mặt với nhiều thách thức như đại dịch, chiến tranh và xung đột chính trị, các quốc gia đều tăng cường sử dụng các biện pháp tài chính để hỗ trợ nền kinh tế phục hồi. Theo IMF, trong giai đoạn 2020-2021, các gói hỗ trợ tài chính toàn cầu đạt mức 10,2% GDP, trong đó các biện pháp tài khóa chiếm 62,2% và các biện pháp tiền tệ chiếm 37,8%. Việt Nam cũng đã triển khai các gói hỗ trợ tài chính tương ứng với 1,8% GDP năm 2020, bao gồm cả biện pháp tài khóa và tiền tệ.

Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội 2022-2023

Giai đoạn 2022-2024, Chính phủ Việt Nam đã thông qua Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội với tổng giá trị khoảng 342 nghìn tỷ đồng. Chương trình này đã góp phần giúp nền kinh tế Việt Nam phục hồi nhanh chóng sau hai năm chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch. Từ năm 2022 đến nay, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng ổn định và thuộc top cao trong khu vực.

Thách thức về chất lượng tăng trưởng

Mặc dù đạt được mức tăng trưởng khả quan, chất lượng tăng trưởng của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế. Nền kinh tế vẫn phụ thuộc nhiều vào yếu tố vốn, trong khi năng suất lao động còn thấp và cải thiện chậm. Tốc độ tăng năng suất lao động giai đoạn 2019-2023 đạt khoảng 5,5%, thấp hơn mục tiêu 6,5% giai đoạn 2021-2025. Quá trình cơ cấu lại nền kinh tế diễn ra chậm, dẫn đến phân bổ nguồn lực chưa hiệu quả.

Mất cân đối trong cơ cấu các nguồn vốn

Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV đã phân tích cơ cấu các nguồn vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2019-2024, cho thấy tín dụng ngân hàng vẫn là kênh cấp vốn chính cho nền kinh tế, chiếm 53,54% trong 6 tháng đầu năm 2024. Trong khi đó, kênh cổ phiếu chỉ chiếm 0,75% và kênh trái phiếu doanh nghiệp chiếm 8%. Vốn tín dụng ngân hàng đang chiếm một nửa trong tổng lượng vốn cung cho nền kinh tế, trong khi huy động vốn qua kênh cổ phiếu rất khiêm tốn. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp đã có năm 2021 rất tốt, cung ứng đến 23,49% nhu cầu vốn cho nền kinh tế, nhưng từ năm 2022 đến nay đã sụt giảm mạnh do nhiều vụ sai phạm, chỉ còn đóng góp khoảng 8% tổng lượng vốn cho nền kinh tế. Đầu tư tư nhân liên tục sụt giảm từ năm 2020 đến nay, chỉ đóng góp khoảng 4-5% tổng lượng vốn cho nền kinh tế.

Đánh giá thực trạng huy động nguồn lực

TS. Cấn Văn Lực đánh giá, giai đoạn 2019-2024, Chính phủ đã kiểm soát nợ công và bội chi ngân sách Nhà nước theo đúng mục tiêu đề ra. Các tổ chức xếp hạng tín nhiệm và định chế tài chính quốc tế đánh giá rủi ro của nền kinh tế Việt Nam ở mức trung bình. Tỷ lệ huy động của doanh nghiệp bảo hiểm trên tổng vốn dài hạn của nền kinh tế cũng ghi nhận tăng trưởng tích cực. Tuy nhiên, việc phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp chưa đạt mục tiêu đề ra. Dư nợ thị trường trái phiếu doanh nghiệp sụt giảm còn 9,64% (tháng 6/2024), khá xa mục tiêu của Chiến lược tài chính 2022 và Chiến lược phát triển Thị trường chứng khoán 2023 là đến năm 2025 đạt 20% GDP. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp chưa thực sự minh bạch, hiệu quả, thiếu bền vững. Cùng với đó, huy động vốn qua thị trường chứng khoán (cổ phiếu) rất khiêm tốn, cổ phần hóa – thoái vốn doanh nghiệp Nhà nước chậm. Thu từ đất đai, thu từ tài sản công trên tổng thu ngân sách nhà nước hiện nay chưa bền vững, còn tồn tại tình trạng lãng phí, thất thoát.

Khuyến nghị cho giai đoạn tiếp theo

TS. Cấn Văn Lực khuyến nghị các cơ quan chức năng cần đẩy mạnh công tác kiểm kê, thống kê các nguồn lực một cách bài bản, khoa học để có phương án quản lý, phân bổ và sử dụng tối ưu. Xây dựng cơ sở dữ liệu, áp dụng các nguyên tắc thống kê theo thông lệ quốc tế các chỉ tiêu thống kê liên quan đến nguồn nhân lực, tài lực, vật lực. Chú trọng công tác thống kê khu vực kinh tế chưa được quan sát. Tăng cường hợp tác quốc tế, chia sẻ kinh nghiệm trong lĩnh vực này.


Nguồn: https://vneconomy.vn

Xem bài viết gốc tại đây

Leave a Comment

Scroll to Top