Yếu tố nào có thể kích thích dòng tiền quay lại cổ phiếu ngân hàng?

“`html

Lợi nhuận Ngân hàng Quý 3/2024: Tăng trưởng chậm lại, rủi ro gia tăng

Lợi nhuận sau thuế của 27 ngân hàng niêm yết đạt hơn 56 nghìn tỷ đồng trong quý 3/2024, tăng 17,6% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, con số này thấp hơn mức tăng trưởng 21,6% của quý trước và cho thấy sự chậm lại đáng kể. Mặc dù thu nhập lãi thuần tăng mạnh nhờ tín dụng tăng, nhưng điều này bị bù đắp bởi chi phí dự phòng và chi phí hoạt động gia tăng. FiinTrade chỉ ra rằng chất lượng tăng trưởng lợi nhuận đang giảm sút, đặc biệt là do NIM (lợi nhuận ròng trên tài sản) thu hẹp đáng kể, thậm chí tiệm cận mức đáy hậu Covid-19 ở nhiều ngân hàng lớn như VCB, BID, ACB, TCB, VIB, TPB, SHB. Việc tăng trưởng tín dụng chậm lại kết hợp với hiệu quả kém của mảng kinh doanh phi tín dụng (như bancassurance) đã dẫn đến giảm thu nhập từ lãi và ngoài lãi, lần lượt là 2,1% và 14,2% so với quý 2/2024. Tổng thể, lợi nhuận sau thuế toàn ngành giảm 8% so với quý trước, thấp hơn kỳ vọng.

NIM thu hẹp và áp lực nợ xấu gia tăng

NIM toàn ngành giảm xuống 3,3% trong quý 3/2024, tương đương mức đáy hậu Covid-19. Nguyên nhân chính là chi phí huy động vốn (COF) tăng do lãi suất huy động cao hơn, trong khi lãi suất cho vay được giữ ổn định để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Tỷ suất sinh lợi của tài sản cũng giảm theo. Thêm vào đó, tín dụng tăng mạnh hơn ở nhóm khách hàng tổ chức – thường có NIM thấp hơn so với khách hàng cá nhân. Rủi ro NIM tiếp tục giảm trong tương lai là rất cao, đặc biệt khi chi phí tín dụng có thể tăng lên do áp lực nợ xấu gia tăng sau khi Thông tư 02 về cơ cấu nợ hết hiệu lực vào ngày 31/12/2024. Mặc dù chi phí tín dụng quý 3/2024 ở mức 1,23%, thấp hơn cùng kỳ, nhưng tỷ lệ nợ xấu vẫn ở mức cao và tỷ lệ tạo nợ xấu mới tiếp tục tăng, báo hiệu những thách thức phía trước.

Tỷ lệ nợ xấu và dự phòng rủi ro

Tỷ lệ nợ xấu nội bảng của 27 ngân hàng ở mức 2,23% trong 3 quý liên tiếp, duy trì ở vùng đỉnh. Một số ngân hàng như SHB, MBB, LPB, BID ghi nhận sự gia tăng mạnh về tỷ lệ nợ xấu, trong khi một số khác như CTG, VPB, HDB, MSB lại giảm. Con số này chưa bao gồm các khoản nợ được tái cơ cấu theo Thông tư 02 và các khoản nợ bị ảnh hưởng bởi bão Yagi, ước tính lên tới hàng trăm nghìn tỷ đồng. Mặc dù dự phòng cụ thể đạt 59,4% tổng dư nợ nhóm 3-5 và 31% nợ nhóm 2-5, cải thiện nhẹ so với mức đáy hậu COVID-19, nhưng mức bao phủ này vẫn còn thấp, đặc biệt là ở khối ngân hàng tư nhân. Tỷ lệ tạo mới nợ xấu tiếp tục tăng, dự báo sẽ tạo áp lực đáng kể lên tăng trưởng lợi nhuận trong tương lai do chi phí tín dụng có khả năng tăng mạnh. Sự phân hóa rõ rệt trong chiến lược dự phòng giữa các ngân hàng nhà nước và tư nhân cũng được thể hiện qua tỷ lệ dự phòng cụ thể/nợ nhóm 2-3.

Triển vọng thị trường và giá cổ phiếu ngân hàng

Chỉ số giá ngành Ngân hàng tăng gần 8% trong 3 tháng qua, cao hơn mức tăng của Vn-Index. CTG và một số cổ phiếu vốn hóa vừa và nhỏ tăng vượt trội nhờ định giá mở rộng. Tuy nhiên, nhóm vốn hóa lớn tăng thấp hơn, chủ yếu nhờ tăng trưởng giá trị sổ sách. Hiện tại, cổ phiếu ngân hàng giao dịch ở mức P/B 1,5x, tương đương mức trung bình giai đoạn 2019-nay. Tuy nhiên, rủi ro NIM thu hẹp, áp lực trích lập dự phòng gia tăng, cùng với mặt bằng giá tương đối cao đã khiến ngành ngân hàng kém hấp dẫn dòng tiền đầu tư. Để thu hút dòng tiền trở lại, cần mức chiết khấu sâu hơn về định giá.

“`


Nguồn: https://vneconomy.vn

Xem bài viết gốc tại đây

Leave a Comment

Scroll to Top